Ngày 21 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng1. Nghị quyết sẽ có hiệu lực trong 05 năm từ ngày 15/8/2017. Nghị quyết này đã cho phép áp dụng nhiều chính sách mới (so với pháp luật hiện hành) về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán nợ xấu. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu những nội dung cơ bản của Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42/2017/QH14).
1. Về phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết
Về phạm vi điều chỉnh, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (VAMC). Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng cho phép áp dụng các quy định tại Nghị quyết để xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của ngân hàng chính sách2.
Đồng thời, để xác định rõ phạm vi điều chỉnh, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã quy định cụ thể tiêu chí, phạm vi, cách thức xác định một khoản nợ là nợ xấu được áp dụng các chính sách quy định tại Nghị quyết, cụ thể:
1.1. Về xác định nợ xấu
Nghị quyết đã ban hành 01 Phụ lục để quy định chi tiết cách thức xác định một khoản nợ là nợ xấu thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết. Theo đó, khoản nợ xấu thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết là: (i) Khoản nợ đang hạch toán trong, ngoài bảng cân đối kế toán của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và được xác định là nợ xấu theo quy định tại Phụ lục về xác định nợ xấu ban hành kèm theo Nghị quyết, khoản nợ xấu mà VAMC đã mua của TCTD; (ii) Khoản nợ xấu phát sinh từ 09 hoạt động sau: Cho vay, Cho thuê tài chính, Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, Bao thanh toán, Cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng, Trả thay theo cam kết ngoại bảng, Ủy thác cấp tín dụng, Hoạt động mua bán nợ, Hoạt đông mua, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc chưa đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch các công ty đại chúng chưa niêm yết; (iii) Được xác định là nợ nhóm 3, 4, 5 theo phương pháp định lượng hoặc phương pháp định tính.
Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định giao quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, sửa đổi Phụ lục về xác định nợ xấu theo đề nghị của Chính phủ khi cần thiết và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
1.2. Về phạm vi nợ xấu được xử lý theo Nghị quyết
Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định rõ nợ xấu được áp dụng các quy định tại Nghị quyết bao gồm: (i) Khoản nợ được hình thành trước ngày 15/08/2017 và được xác định là nợ xấu trước thời gian Nghị quyết có hiệu lực; (ii) Khoản nợ được hình thành trước ngày 15/08/2017 và được xác định là nợ xấu trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực.
Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định rõ TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có trách nhiệm xác nhận bằng văn bản khoản nợ là nợ xấu khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo Nghị quyết.
2. Về nguyên tắc xử lý nợ xấu
Để bảo đảm rõ quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định khi xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu phải bảo đảm 04 nguyên tắc sau: Một là bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; Hai là phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; Ba là không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu; Bốn là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
3. Về bán nợ xấu, tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị khoản nợ
Để tháo gỡ vướng mắc, e ngại bị xử lý về trách nhiệm khi bán nợ xấu, tài sản bảo đảm, Nghị quyết 42/2017/QH14 có quy định cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật, giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng hơn quyền của người bán được quyền bán nợ xấu, tài sản bảo đảm theo đúng quy định pháp luật, kể cả việc bán thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ.
4. Về mua, bán nợ xấu của VAMC
Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của VAMC, tạo điều kiện cho VAMC triển khai hiệu quả các hoạt động mua bán nợ theo giá thị trường, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã cho phép VAMC thực hiện các hoạt động mua bán nợ sau:
Thứ nhất, mở rộng các khoản nợ được mua bán của VAMC. Hiện tại, VAMC chỉ được mua nợ xấu hạch toán trong bảng. Quy định này hạn chế đối tượng các khoản nợ xấu được mua bán theo giá thị trường. Do vậy, bên cạnh việc mua bán các khoản nợ nội bảng, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép VAMC được mua các khoản nợ xấu đã sử dụng dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoài bảng và chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường. Các quy định nà y sẽ hỗ trợ: (i) Cải thiện chất lượng một cách bền vững hơn tài sản của TCTD; (ii) TCTD bán nợ theo giá trị thị trường thu được nợ bằng tiền mặt để phục vụ cho việc mở rộng đầu tư, tín dụng mới; giải phóng vốn bị đọng trong các khoản nợ xấu, giảm chi phí cơ hội và cải thiện khả năng sinh lời của TCTD; (iii) TCTD giảm được số nợ xấu bán cho VAMC bằng trái phiếu đặc biệt để xử lý dứt điểm nợ xấu và cải thiện chất lượng tài sản của TCTD; (iv) Khi bán được các khoản nợ xấu đang hạch toán ngoài bảng, các TCTD sẽ có thêm thu nhập bất thường và nâng cao khả năng: trích lập dự phòng rủi ro đối với tổn thất do chuyển các khoản nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường và trích lập dự phòng cho việc xử lý các khoản nợ xấu đang hạch toán trong bảng, tạo động lực khuyến khích các TCTD bán nợ xấu theo giá trị thị trường.
Đồng thời, việc cho phép chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua bán theo giá trị thị trường sẽ giúp tạo lập thị trường mua bán nợ theo giá thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong xử lý nợ xấu.
Thứ hai, bổ sung đối tượng được bán nợ. Nghị quyết 42/2017/QH14 đã bổ sung quy định cho phép VAMC được bán nợ xấu cho các tổ chức, cá nhân bao gồm cả pháp nhân không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ.
Quy định này của Nghị quyết 42/2017/QH14 khắc phục bất cập giới hạn chủ thể được mua nợ của VAMC tại Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,kinh doanh tại doanh nghiệp3 và bảo đảm quyền bình đẳng trong hoạt động xử lý nợ của VAMC như các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, góp phần tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ.
Thứ ba, bổ sung thêm phương thức mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC. Để tạo điều kiện cho VAMC thực hiện mua bán nợ theo giá thị trường với TCTD, Nghị quyết 42/2017QH14 đã có quy định cho phép VAMC được thỏa thuận với TCTD Việt Nam: (i) Mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập; (ii) Xử lý, bán, thu hồi nợ theo quy định của pháp luật và phân chia phần giá trị còn lại của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu này sau khi trừ giá mua và các chi phí xử lý. Đồng thời, để bảo đảm quyền lợi của các bên, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng yêu cầu khi thực hiện mua bán nợ theo phương thức này, VAMC phải thống nhất với TCTD lựa chọn tổ chức định giá độc lập.
5. Về quyền thu giữ tài sản bảo đảm
5.1. Về điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm: Để giải quyết khó khăn, vướng mắc của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến việc giao tài sản bảo đảm để xử lý, tạo điều kiện cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu theo Nghị quyết của Quốc hội, tránh trường hợp chủ tài sản cố tình chây ỳ, chống đối kéo dài thời gian xử lý, gây ảnh hưởng lớn đến việc xử lý nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đa số người gửi tiền, nâng cao kỷ luật hợp đồng, đồng thời, hạn chế việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC lạm dụng quyền thực hiện hành vi thu giữ gây mất trật tự xã hội, xâm phạm đến các quyền khác của các chủ thể có liên quan, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi có đầy đủ 05 điều kiện sau:
Thứ nhất, Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật dân sự 2015. Theo Điều 299 Bộ luật dân sự, quyền xử lý tài sản bảo đảm phát sinh trong các trường hợp sau: (i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; (ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; và (iii) Trường hợp khác theo thỏa thuận hoặc luật có quy định.
Thứ hai, tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định pháp luật. Quy định này bảo đảm việc thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện khi có sự thỏa thuận trước của các bên. Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định ”hợp đồng bảo đảm” theo Nghị quyết bao gồm cả văn bản khác ghi nhận thỏa thuận giữa các bên.
Thứ ba, giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo quy định pháp luật. Quy định này bảo đảm quyền của bên nhận bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ 3.
Thứ tư, tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại Nghị quyết.
5.2. Về việc công khai thông tin
Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định cụ thể TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải thực hiện công khai thông tin trước khi thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm như sau:
Thứ nhất, đối với tài sản bảo đảm là bất động sản. Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định chậm nhất 15 ngày trước ngày thu giữ, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải: (i) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình; (ii) Gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an nơi có tài sản bảo đảm; (iii) Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm; (iv) Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.
Thứ hai, đối với tài sản bảo đảm là động sản. Việc công khai thông tin được tiến hành theo phương thức: (i) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình và thông báo về việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm; (ii) Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản trước thời điểm thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm bằng cách gửi theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.
5.3. Về thực hiện thu giữ
Về ủy quyền thu giữ, để kiểm soát chặt chẽ việc thu giữ, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định rõ việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện như sau: (i) TCTD chỉ được ủy quyền việc thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD; (ii) VAMC chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho TCTD bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc TCTD bán nợ.
Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định rõ TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC, tổ chức được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.
Về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định: (i) Chính quyền địa phương các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC; (ii) Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm; (iii) Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các cấp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự khi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
6. Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ tại Tòa án
Để rút ngắn quá trình giải quyết tranh chấp qua Tòa án4, tăng hiệu quả hoạt động xử lý tài sản bảo đảm qua tòa án, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm.
Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, Nghị quyết 24/2017/QH14 quy định thủ tục rút gọn sẽ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện sau: (i) Trong hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho bên nhận bảo đảm hoặc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có quyền xử lý tài sản bảo đảm; (ii) Giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo quy định của pháp luật; (iii) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
7. Về mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
Để khắc phục bất cập của Luật Đất đai5, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho việc mua bán các khoản nợ có nguồn gốc từ hoạt động cấp tín dụng, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển, Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: Thứ nhất, bên mua khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đó là quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai được: (i) Quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua; (ii) Kế thừa quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp. Thứ hai, VAMC được đăng ký thế chấp khi nhận bổ sung tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai của khoản nợ đã mua.
Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 giao Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất là tài sản bảo đảm của khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
8. Về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản
Để khắc phục bất cập trong quy định tại Điều 49 Luật kinh doanh bất động sản về điều kiện chuyển nhượng dự án bất động sản không phù hợp với việc xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản, tạo cơ sở pháp lý cho bên nhận thế chấp xử lý được tài sản bảo đảm là các dự án bất động sản, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật; (ii) Có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (iii) Dự án không có tranh chấp đã được thụ lý chưa giải quyết hoặc đang giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền về quyền sử dụng đất; không đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (iv) Không có quyết định thu hồi dự án, thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đồng thời, để bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan (bao gồm cả người mua nhà tại dự án nhà ở), Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định bên nhận chuyển nhượng dự án phải: (i) Đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản; (ii) Kế thừa các quyền, nghĩa vụ của chủ đầu tư dự án và tiến hành các thủ tục để tiếp tục thực hiện dự án theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về xây dựng.
9. Về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án
Việc cho phép chấp hành viên kê biên cả tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án đang thế chấp, cầm cố tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để đảm bảo cho khoản vay theo Luật thi hành án dân sự ảnh hưởng lớn đến quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, gia tăng nợ xấu của hệ thống TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đặc biệt trong trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay hoặc là nguồn thu nhập chính để trả nợ. Để khắc phục bất cập trên, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định tài sản bảo đảm của người phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 Luật thi hành án dân sự, trừ 02 trường hợp: (i) Thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; và (ii) Có sự đồng ý bằng văn bản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC.
10. Về bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên
Để xử lý nợ xấu của các TCTD, đặc biệt là các TCTD yếu kém hiệu quả hơn, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có quy định cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quyền bán nợ xấu mà khoản nợ xấu đó có có tài sản bảo đảm đang bị kê biên cho VAMC, doanh nghiệp có chức năng kinh doanh mua, bán nợ. Đồng thời, để bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan, Nghị quyết quy định rõ TCTD có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tình trạng bị kê biên của tài sản bảo đảm trước khi thực hiện mua, bán khoản nợ xấu; bên mua tự xác định rủi ro đối với việc mua khoản nợ này. Việc bán tài sản bảo đảm đang bị kê biên này thực hiện theo quy định của pháp luật.
11. Về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng
Để khắc phục tình trạng không có quy định của pháp luật về hoàn trả tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm sau khi cơ quan tiến hành tố tụng hoàn tất quy trình xác định chứng cứ liên quan đến tài sản bảo đảm trong các vụ án hình sự, bảo đảm quyền chủ nợ có bảo đảm hợp pháp của bên nhận bảo đảm, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có quy định cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, sau khi hoàn tất các thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án.
12. Về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm
Việc phải nộp các khoản thuế trước khi thực hiện nghĩa vụ ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã làm giảm số tiền thu hồi nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nhiều trường hợp số tiền bán tài sản bảo đảm không đủ thu hồi nợ cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhưng vẫn phải nộp thuế, gây khó khăn cho cả bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm và ảnh hưởng lớn đến quyền lợi chủ nợ có bảo đảm của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Do đó, nhằm đảm bảo tạo điều kiện để TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể thu hồi được khoản nợ xấu từ xử lý tài sản bảo đảm, qua đó giảm thiểu nợ xấu cho nền kinh tế, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm.
Đồng thời, Nghị quyết cung quy định trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật.
13. Về chuyển nhượng tài sản bảo đảm
Để khắc phục tình trạng các cơ quan thuế yêu cầu bên nhận bảo đảm trích số tiền thu được từ việc bán tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ nợ thuế khác của bên bảo đảm thì mới làm thủ tục xác nhận hoàn thành nghĩa vụ tài chính khi làm thủ tục sang tên tài sản bảo đảm cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm, Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không phải thực hiện các nghĩa vụ thuế, phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng tài sản bảo đảm khi thực hiện thủ tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm.
14. Về phân bổ lãi dự thu, chênh lệch khi bán khoản nợ xấu của TCTD, tổ chức mua bán và xử lý nợ xấu
Để tránh ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của TCTD do việc thoái lãi dự thu, phân bổ ngay chênh lệch giữa giá trị khoản nợ và giá bán nợ, đồng thời để hỗ trợ TCTD, VAMC có thêm nguồn lực tài chính cho hoạt động kinh doanh, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép TCTD được phân bổ dần số lãi dự thu đã ghi nhận của các khoản nợ xấu chưa thoái theo quy định, chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập vào kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm theo các nguyên tắc sau: (i) Mức phân bổ hằng năm tối thiểu là mức chênh lệch thu chi từ kết quả hoạt động kinh doanh hằng năm của TCTD; (ii) Thời hạn phân bổ lãi dự thu tối đa không quá 10 năm. Riêng đối với lãi dự thu phải thoái của các khoản nợ bán cho tổ chức mua bán và xử lý nợ xấu, thời gian phân bổ lãi dự thu tối đa không vượt quá thời hạn còn lại của trái phiếu của VAMC; Thời hạn phân bổ chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập tối đa không quá 05 năm; (iii) Số lãi dự thu được phân bổ dần theo Nghị quyết là số lãi dự thu đã ghi đến hết ngày 31/12/2016.
Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng cho phép VAMC được phân bổ chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán khoản nợ xấu đã mua theo giá trị thị trường và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập vào kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm với mức phân bổ tối thiểu là chênh lệch thu chi.
15. Về áp dụng pháp luật
Để đảm bảo việc áp dụng các quy định tại Nghị quyết phù hợp với nguyên tắc, mục tiêu, quan điểm xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật cho phép thí điểm áp dụng chính sách mới, Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã quy định việc áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm được thực hiện như sau: Thứ nhất, việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được áp dụng theo quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14. Trường hợp Nghị quyết không có quy định thì áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành. Thứ hai, trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết 42/2017/QH14 và luật khác về cùng một vấn đề về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC thì áp dụng quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14.
16. Về quy định chuyển tiếp
Để đảm bảo có cơ chế xử lý chuyển tiếp cho các trường hợp xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm sau khi Nghị quyết này hết hiệu lực thi hành, Nghị quyết 42/2017/QH14 về chuyển tiếp đối với một số trường hợp sau đây: (i) Thỏa thuận giữa VAMC với TCTD quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có hiệu lực trong thời hạn Nghị quyết có hiệu lực được tiếp tục thực hiện cho đến khi hết thời hạn của thỏa thuận đó; (ii) TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được tiếp tục thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết 42/2017/QH14 trong trường hợp đã thực hiện việc công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 7 của Nghị quyết trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực; (iii) Tòa án tiếp tục áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 8 của Nghị quyết 42/2017/QH14 đối với vụ án đã được thụ lý trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực.
Ngoài ra, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định trách nhiệm Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chính quyền địa phương các cấp trong việc giám sát, tổ chức thực hiện và hướng dẫn thi hành Nghị quyết./.
———————————
1 Nghị quyết được 424/467 đại biểu có mặt biểu quyết đồng ý thông qua (tỷ lệ nhất trí thông qua là 86,35% trên tổng số đại biểu Quốc hội).
2 Bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
3 Khoản 2 Điều 26 Luật số 69/2014/QH13 quy định đối với doanh nghiệp nhà nước “Doanh nghiệp được quyền bán nợ phải thu quá hạn, nợ phải thu khó đòi, nợ phải thu không có khả năng thu hồi. Doanh nghiệp chỉ được bán nợ cho tổ chức kinh tế có chức năng kinh doanh mua bán nợ, không được bán trực tiếp cho đối tượng nợ…”
4 Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015, thời gian thực hiện thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo trình tự thủ tục tố tụng rút gọn sẽ được rút ngắn hơn trình tự thông thường từ khoảng từ 03 tháng đến 07 tháng.
5 Điều 174, 175, 176 Luật Đất đai chỉ cho phép TCTD hoạt động tại Việt Nam được nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
Nợ xấu nhìn từ góc độ quản trị
TS. Trần Thị Quế Giang, Khoa Chính sách công và Quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam
Nguồn: TBKTSG 2/7/2017
(TBKTSG) – Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) vừa được Quốc hội thông qua và các thảo luận xung quanh nó chủ yếu tập trung xử lý vấn đề từ góc nhìn kỹ thuật ở cấp độ ngân hàng thương mại (NHTM) mà quên mất rằng căn nguyên nợ xấu ở Việt Nam xuất phát trước hết từ chính những yếu kém, bất cập về quản trị ở cấp độ hệ thống.
Nghị quyết trên có thời hạn thực hiện năm năm, kể từ ngày 15-8-2017 (thời điểm nghị quyết bắt đầu có hiệu lực cũng là thời điểm chốt sổ các khoản nợ xấu được xử lý theo quy định ở nghị quyết đặc biệt này).
Không thể không đối diện sự thật
Thời điểm 15-8-2017 được chốt trong nghị quyết có thể vẫn còn gây tranh luận nhưng việc xác định một điểm mốc thời gian đối với các món nợ xấu thuộc diện xử lý đặc biệt là cần thiết. Dẫu nợ xấu nào cũng là nợ xấu và không có ngân hàng nào không có nợ xấu, nhưng vấn đề cần quan tâm là mức độ và tốc độ gia tăng nợ xấu, cũng như nguồn gốc nợ xấu cần được nhận diện rõ ràng và có biện pháp can thiệp kịp thời. Xử lý nợ xấu không phải chỉ ở việc đối phó với số nợ xấu tích lũy cho đến thời điểm hiện tại, mà quan trọng hơn là hình thành chính sách quản trị, xử lý nợ xấu hiệu quả trong tương lai bằng cách “phát tín hiệu” một cách nhất quán về chế tài nghiêm minh đối với các cá nhân, tổ chức liên quan tới thị trường tài chính.
Đây có thể coi là cơ hội để đội ngũ lãnh đạo mới của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) làm rõ thực trạng nợ xấu, xác định rõ nguyên do lịch sử của số nợ xấu này và xử lý một cách triệt để, thay vì né tránh trách nhiệm, thậm chí hỗ trợ các TCTD che giấu nợ dẫn đến tình trạng nợ xấu càng lúc càng thiếu minh bạch, ngày một tăng thêm theo cơ chế Ponzi (một dạng đa cấp lừa đảo, lấy của người sau trả cho người trước).
Mặc dù được coi là căn bệnh trầm kha của hệ thống tài chính, được nhắc đến trong rất nhiều nghị quyết, nghị định, đề án chính sách tái cấu trúc các TCTD, nhưng cho tới nay đa số các báo cáo và thông điệp chính sách chưa nhận diện được rõ ràng và đầy đủ về nợ xấu, chưa nhìn nhận đúng bản chất và thực trạng nợ xấu cũng như nguyên nhân phát sinh nợ xấu, và vì thế chưa có cách tiếp cận xử lý nợ xấu một cách thực chất, hiệu quả.
Con số 600.000 tỉ đồng nợ xấu (tương đương 10,08% tổng dư nợ vào cuối năm 2016) mà Thống đốc NHNN mới công bố cũng chỉ là một con số ước chừng, trong đó chưa làm rõ nợ xấu phân loại theo nhóm ngành ra sao, phân bổ ở những ngân hàng nào, phân chia theo nguyên nhân và thời điểm hình thành nợ xấu, có hay không có tài sản bảo đảm và tài sản bảo đảm thuộc thể loại gì… Ngay như khi nói 6,3% trong tổng nợ xấu là thuộc về doanh nghiệp nhà nước, nếu theo Luật Doanh nghiệp sửa đổi từ năm 2014 thì ở đây mới chỉ đề cập đến doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Như vậy, 64% tổng nợ xấu thuộc doanh nghiệp ngoài quốc doanh (theo công bố của Thống đốc NHNN tại kỳ họp Quốc hội vừa rồi) có bao nhiêu là các doanh nghiệp có vốn nhà nước thì chưa rõ ràng.
Nếu tiếp tục đổ lỗi nguyên nhân nợ xấu do yếu tố khách quan thị trường thế giới hay năng lực, nhận thức của một số cá nhân, tổ chức mà không nhìn trực diện vào nguyên nhân mang tính hệ thống căn cơ thì nợ xấu sẽ lại tiếp tục được tái tạo với quy mô lớn hơn và hình thức phức tạp hơn trước.
Căn nguyên của nợ xấu từ góc nhìn quản trị
Chỉ khi công nhận căn nguyên nợ xấu xuất phát từ quản trị nhà nước trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thì mới có thể bàn đến giải pháp phù hợp nhằm quản lý và xử lý nợ xấu hiệu quả, tái cấu trúc và phát triển hệ thống tín dụng lành mạnh.Box phải |
Nhìn từ góc độ quản trị, những nguyên nhân căn cơ này không chỉ nằm ở quản trị nội bộ của các ngân hàng thương mại (NHTM), mà xuất phát trước tiên từ những yếu kém về quản trị quốc gia trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Từ phía Chính phủ, những chính sách thúc đẩy tăng trưởng nóng trong giai đoạn 2006-2010 đòi hỏi tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong khi năng lực hấp thụ vốn không tương thích, quan hệ tín dụng không dựa trên nguyên tắc thị trường là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến phát sinh nợ xấu. Vinashin, Vinalines, hay 12 dự án ngàn tỉ thua lỗ, đắp chiếu… là một số ví dụ điển hình.
Ở cấp độ của NHNN, những chính sách mang nặng tính chủ quan, hành chính như Nghị định 141 về tăng vốn điều lệ, chính sách áp đặt trần lãi suất đi ngược quy luật thị trường tín dụng, chính sách lãi suất cơ bản xa rời nhịp sống thật của thị trường tiền tệ, tín dụng… cũng góp phần không nhỏ hình thành tình trạng sở hữu chồng chéo và nợ xấu. Trong chưa đầy 10 năm (từ 2005-2012), có những ngân hàng có vốn điều lệ tăng hơn 220 lần (Ngân hàng Mekong, Đại Dương, Tín Nghĩa), thậm chí có ngân hàng vốn điều lệ tăng 600 lần (Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex).
Cứ mỗi đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra thì ngân hàng huy động thêm trung bình 15-20 đồng từ các nguồn khác để đảm bảo hiệu quả tài chính cho chủ sở hữu (ROE). Tăng vốn điều lệ nhanh chóng dẫn đến sức ép tương ứng trong việc làm đẹp báo cáo tài chính, huy động tiền gửi và cho vay dẫn đến hình thành hàng loạt sai phạm nghiêm trọng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, từ việc tăng vốn ảo, tăng huy động và dư nợ ảo đến những khoản chi ngoài lãi suất chăm sóc khách hàng, những vi phạm trong quá trình xét duyệt tín dụng…
Trong khi đó, vai trò giám sát của NHNN về cơ bản lại bị vô hiệu. Mặc dù có yếu tố hạn chế về năng lực và nhân sự, nhưng trước hết nguyên nhân là do thiếu động cơ thúc đẩy NHNN thực hiện tốt vai trò giám sát. Vốn dĩ đã không hoàn toàn độc lập, NHNN lại vừa giữ vai trò cơ quan nhà nước điều tiết, giám sát các TCTD, vừa đại diện vốn nhà nước trong một số NHTM, do đó những xung đột lợi ích chồng chất dẫn đến hệ quả tất yếu là một số chính sách thiếu nhất quán, mang tính hành chính và hình thức.
Ngay cả để ứng phó trong bối cảnh khủng hoảng, trong tình trạng biến động mạnh của thị trường nhằm duy trì niềm tin và đảm bảo ổn định xã hội, ít nhất Chính phủ và NHNN phải nắm rõ thực trạng hệ thống tài chính. Thế nhưng, trong nhiều năm trước, cơ sở hạ tầng dữ liệu, chuẩn mực kế toán và chính sách quản trị thông tin, quản trị rủi ro chưa được triển khai chặt chẽ dẫn đến nhiều trường hợp bất cập của hệ thống tài chính nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan chức năng. Trong dự thảo Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu, việc đánh giá thực trạng một TCTD yếu kém cần tới sáu tháng, điều này cho thấy rõ sự bất cập của NHNN trong việc cập nhật thông tin và kiểm soát tình hình hệ thống. Hay khi đánh giá lại hệ số an toàn vốn (CAR) thì hệ số CAR của bốn NHTM nhà nước trong nhóm thí điểm giảm từ mức trên 9% theo Thông tư 13 xuống chỉ còn dưới 8% theo chuẩn mực quốc tế Basel II.
Tóm lại, trong bối cảnh một ngân hàng trung ương (NHNN) thiếu độc lập, đa nhiệm, đa mục tiêu, xung đột lợi ích và thiếu cơ sở hạ tầng thông tin cập nhật, các chính sách điều tiết giám sát quản trị hệ thống tài chính ngân hàng đã thúc đẩy gia tăng rủi ro đạo đức từ cả các TCTD lẫn bên sử dụng vốn vay, hình thành những biến tướng thị trường và rủi ro khôn lường, vượt tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Chỉ khi công nhận căn nguyên nợ xấu xuất phát từ quản trị nhà nước trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thì mới có thể bàn đến giải pháp phù hợp nhằm quản lý và xử lý nợ xấu hiệu quả, tái cấu trúc và phát triển hệ thống tín dụng lành mạnh.
Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc, bất cập về pháp lý đã nảy sinh trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Công ty quản lý nợ của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật, soạn thảo trình Chính phủ, Quốc hội xem xét thông qua Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.